Quy định mới về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính
Sáng ngày 1/9/2018 vừa qua, Văn phòng Chính phủ tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc về nâng cao chất lượng giải quyết thủ tục hành chính. Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình chủ trì Hội nghị. Tham dự Hội nghị tại điểm cầu Long An có Phó Chủ tịch UBND tỉnh-Nguyễn Văn Cảnh, cùng đại diện lãnh đạo các sở, ngành, huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Tại hội nghị, đại diện Văn phòng Chính phủ đã triển khai Quyết định 985/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tịch hành chính. Sau đây Trang Thông tin điện tử HĐND tỉnh giới thiệu một số điểm mới của Nghị định số 61/2018/NĐ-CP.

Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa
Bình phát biểu kết luận Hội nghị trực tuyến toàn quốc về nâng cao chất
lượng giải quyết thủ tục hành chính sáng ngày 11/9/2018
Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tịch hành chính đã chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/6/2018 vừa qua. Nghị định này có 7 Chương, 41 Điều quy định cụ thể việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên Nghị định này không điều chỉnh việc thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa quốc gia quy định tại Luật Hải quan. Khi Nghị định này có hiệu lực thì Quyết định số 09/2015/QĐ-CP ngày 25/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương sẽ hết hiệu lực thi hành.
Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (Điều 1, Điều 2)
So với Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Nghị định 61/2018/NĐ-CP đã mở rộng đối tượng áp dụng. Theo đó, không chỉ các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương như trước đây mà các bộ, cơ quan ngang bộ; tổng cục và tương đương, cục, vụ thuộc bộ, cơ quan ngang bộ có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết thủ tục hành chính và tham gia vào quá trình giải quyết thủ tục hành chính cũng áp dụng cơ chế này trong giải quyết thủ tục hành chính để tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện thủ tục hành chính cũng như bảo đảm khả năng theo dõi, giám sát việc giải quyết thủ tục hành chính thống nhất cả ở trung ương và địa phương. Đồng thời, Nghị định cũng khuyến khích các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và các cơ quan, tổ chức khác áp dụng cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục cho tổ chức, cá nhân.
Về nguyên tắc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông
Nghị định quy định 7 nguyên tắc thực hiện: Lấy sự hài lòng của tổ chức, cá nhân là thước đo chất lượng và hiệu quả phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức và cơ quan có thẩm quyền; Việc giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông được quản lý tập trung, thống nhất; Giải quyết thủ tục hành chính kịp thời, nhanh chóng, thuận tiện, đúng pháp luật, công bằng, bình đẳng, khách quan, công khai, minh bạch và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền; Quá trình giải quyết thủ tục hành chính được đôn đốc, kiểm tra, theo dõi, giám sát, đánh giá bằng các phương thức khác nhau trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và có sự tham gia của tổ chức, cá nhân; Không làm phát sinh chi phí thực hiện thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân ngoài quy định của pháp luật; Cán bộ, công chức, viên chức cơ quan có thẩm quyền thực hiện trách nhiệm giải trình về thực thi công vụ trong giải quyết thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật; Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế có liên quan đến thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập; Bên cạnh đó, Nghị định quy định rõ các hành vi mà cán bộm công chức, viên chức, các tổ chức, cá nhân không được làm trong giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông; quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân thực hiện thủ tục hành chính (Điều 5, Điều 6).
Tổ chức, mối quan hệ công tác và trụ sở của Bộ phận Một cửa được quy định cụ thể tại Chương II, từ Điều 7 đến Điều 13
Nghị định tăng cường sự chủ động cho bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính để bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp các đặc điểm riêng của bộ, ngành, địa phương mà vẫn bảo đảm hiệu quả và yêu cầu quản lý. Theo đó, tại Điều 7 của Nghị định đã quy định cụ thể việc tổ chức Bộ phận Một cửa tại cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các cơ quan ngành dọc của Trung ương đóng tại địa phương. Bộ phận Một cửa là tên gọi chung cho Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả hoặc Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh.
Tại bộ, cơ quan ngang bộ, căn cứ vào các tiêu chí như số lượng thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết, tần suất tiếp nhận hồ sơ và tình hình bố trí trụ sở, Bộ trưởng quyết định thành lập Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả tập trung trực thuộc văn phòng bộ, cơ quan hoặc giao cho các đơn vị thuộc bộ thành lập Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả tại đơn vị mình. Trường hợp thành lập Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả tại các đơn vị thuộc bộ, Văn phòng bộ có trách nhiệm tổng hợp theo dõi, giám sát, đôn đốc việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại các đơn vị, cơ quan này thông qua Hệ thống Thông tin một cửa điện tử cấp bộ. Đối với các bộ có tính đặc thù như: Quốc phòng, Công an, Ngoại giao, Nghị định cũng giao cho các bộ này quyết định việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông phù hợp với điều kiện công tác của các đơn vị của từng bộ.
Tại cấp tỉnh, Nghị định quy định thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh thuộc Văn phòng UBND cấp tỉnh. Đây là đơn vị hành chính đặc thù, có con dấu và tài khoản riêng để phát huy được tính chủ động, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ, do lãnh đạo văn phòng đứng đầu và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Riêng đối với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Nghị định quy định, UBND thành phố căn cứ tần suất tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính, tình hình bố trí trụ sở của các cơ quan chuyên môn và điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, trình HĐND thành phố quyết định số lượng Trung tâm Phục vụ hành chính công của Thành phố.
Trường hợp địa phương chưa đủ điều kiện thành lập Trung tâm thì giao cho người đứng đầu cơ quan chuyên môn cấp tỉnh thành lập Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả tại cơ quan chuyên môn đó và giao Văn phòng UBND cấp tỉnh nhiệm vụ tổng hợp theo dõi, giám sát, đôn đốc việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại các cơ quan chuyên môn thông qua Hệ thống Thông tin một cửa điện tử cấp tỉnh.
Tại cấp huyện, Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả cấp huyện do UBND cấp huyện quyết định thành lập và trực thuộc Văn phòng HĐND, UBND cấp huyện.
Tại cấp xã, UBND cấp xã quyết định thành lập Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả thuộc UBND cấp xã.
Đối với cơ quan của trung ương được tổ chức theo hệ thống ngành dọc tại địa phương, Nghị định quy định người đứng đầu cơ quan này quyết định thành lập Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả tại cơ quan, đồng thời bố trí công chức đến Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh, Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả cấp huyện để tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính đối với những thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền.
Cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại Bộ phận Một cửa là người của các cơ quan, đơn vị, phòng ban chuyên môn cử đến phải là những người am hiểu về nghiệp vụ, bảo đảm các tiêu chuẩn, trách nhiệm theo quy định tại Điều 11 Nghị định thay vì những người thuộc Văn phòng như trước đây.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định cụ thể việc tổ chức lại để đảm bảo tính thống nhất trong thời gian tới đối với các địa phương đã tổ chức Trung tâm hành chính công cấp tỉnh, Trung tâm hành chính công cấp huyện.
Về phạm vi tiếp nhận và quy trình giải quyết thủ tục hành chính được quy định cụ thể tại Chương III, từ Điều 14 đến Điều 22
Tại cấp bộ: Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả tại bộ, cơ quan ngang bộ tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của các đơn vị trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả tổng cục và tương đương, cục thuộc bộ tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của cơ quan, đơn vị mình; Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả của các cơ quan của trung ương được tổ chức theo hệ thống ngành dọc tại địa phương tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của cơ quan, đơn vị mình.
Tại cấp tỉnh: Trung tâm Phục vụ hành chính công tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của UBND cấp tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, những thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của các cơ quan được tổ chức theo hệ thống ngành dọc tại địa phương theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, những thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các bộ, ngành, của UBND cấp huyện được giao tiếp nhận tại Trung tâm Phục vụ hành chính công; Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh tiếp nhận thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của cơ quan mình, thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các bộ, ngành, của UBND cấp huyện được giao tiếp nhận tại cơ quan chuyên môn cấp tỉnh.
Tại cấp huyện: Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả cấp huyện thực hiện tiếp nhận hồ sơ tất cả thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của UBND cấp huyện, một số thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của các cơ quan được tổ chức theo hệ thống ngành dọc tại địa phương theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, UBND cấp xã được giao tiếp nhận tại cấp huyện.
Tại cấp xã: Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả cấp xã tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp xã và những thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp huyện được giao tiếp nhận hồ sơ tại cấp xã.
Thiết lập Cổng Dịch vụ công quốc gia và Hệ thống Thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh
Để bảo đảm kết nối, chia sẻ thông tin giữa các hệ thống thông tin của các cơ quan hành chính nhà nước; bảo đảm khả năng tiếp nhận, kết nối, chia sẻ thông tin giữa cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính với tổ chức, cá nhân có nhu cầu thực hiện thủ tục hành chính thông qua các phương tiện điện tử, truyền thông, mạng xã hội, Nghị định đã dành một Chương, từ Điều 23 đến Điều 26 để quy định việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông.
Theo đó, xây dựng Cổng dịch vụ công quốc gia là cổng tích hợp thông tin về dịch vụ công trực tuyến, tình hình giải quyết, kết quả giải quyết thủ tục hành chính trên cơ sở tích hợp, trao đổi dữ liệu về thủ tục hành chính, hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính với Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành; kết nối, truy xuất dữ liệu từ các hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh và các giải pháp hỗ trợ nghiệp vụ, kỹ thuật. Văn phòng Chính phủ là cơ quan được giao xây dựng và thống nhất quản lý Cổng Dịch vụ công quốc gia.
Các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được giao nhiệm vụ xây dựng tập trung, thống nhất Cổng Dịch vụ công và Hệ thống Thông tin một cửa điện tử của bộ, ngành, địa phương mình để tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính , cung cấp dịch vụ công trực tuyến thuộc thẩm quyền giải quyết của bộ, ngành, UBND các cấp. Hệ thống Thông tin một cửa điện tử là hệ thống thông tin nội bộ có chức năng hỗ trợ việc tiếp nhận, giải quyết, theo dõi tình hình, kết quả giải quyết thủ tục hành chính của các cơ quan, đơn vị trực thuộc; kết nối, tích hợp với Cổng Dịch vụ công quốc gia và Cổng Dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh để đăng tải công khai kết quả giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp các dịch vụ công trực tuyến. Cổng Dịch vụ công và Hệ thống Thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh phải bảo đảm khả năng tích hợp với Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành và Cổng Dịch vụ công quốc gia.
Việc sử dụng hệ thống thông tin một cửa điện tử và tiếp nhận thủ tục hành chính trực tuyến giúp giảm lượng hồ sơ giấy và các công văn, giấy tờ trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính. Các thông tin được lưu trữ trên hệ thống tạo điều kiện cho các cơ quan có thể khai thác để giải quyết thủ tục hành chính, đồng thời tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan trong việc giải quyết thủ tục hành chính. Việc tăng cường giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến còn là một biện pháp hữu hiệu để giảm bớt đi lại của người dân, giảm các giấy tờ in ấn, từ đó giúp giảm chi phí giải quyết thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân có thể sử dụng Mã số hồ sơ để tra cứu tình trạng giải quyết thủ tục hành chính tại Cổng Dịch vụ công quốc gia, Cổng Dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh.
Ngoài ra, Nghị định còn quy định cụ thể các nguyên tắc, thẩm quyền, phương thức,… đánh giá việc giải quyết thủ tục hành chính.
Thiết nghĩ, với các quy định cụ thể về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân tại Nghị định 61/2018/NĐ-CP và sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, nhất định sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng trong thời gian tới.
BBT